Triệu chứng lâm sàng bệnh vảy nến
- By : Dược sĩ Lưu Anh
- Category : Sức Khỏe
Contents
Vảy nến là bệnh ngoài da thường gặp, bệnh gặp ở khắp nơi trên thế giới, ở mọi vùng dân cư, cả thành thị và nông thôn.
ở Việt Nam theo thống kê của Bộ môn Da liễu Trường Đại học Y Hà Nội, bệnh chiếm 1,5 đến 2% trong tổng số các bệnh ngoài da. ở Liên Xô bệnh chiếm 6,7%. ở các nước Châu Âu, Mỹ bệnh chiếm 1 đến 2%. Bệnh xuất hiện chủ yếu ở lứa tuổi từ 10 đến 30 tuổi. Tỷ lệ nam và nữ xấp xỉ nhau.
Đặc điểm lâm sàng của bệnh là phát ban độc dạng, tiến triển mạn tính, tái phát, chẩn đoán thường dễ nhưng điều trị còn gặp nhiều khó khăn.
Lâm sàng bệnh vảy nến:
-
Tổn thương cơ bản
Là dát đỏ trên có phủ vảy trắng
- Dát đỏ: dát nổi cao trên mặt da, giới hạn rõ, có màu đỏ hoặc màu hồng, ấn kính mất màu, bề mặt nhẵn, mật độ chắc. Hình thể thay đổi, có thể có hình tròn, hình bầu dục, hình bản đồ… kích thước thất thường từ một vài mm đến hàng chục cm đường kính.
- Vảy trắng: phủ trên dát đỏ là lớp vảy trắng dày khô, mủn và dễ bong, nếu để nguyên thì trông như giọt nến, nếu cạo thì vụn ra như bột trắng, như phấn giống như cạo vào cây nến. vảy tá tạo rất nhanh, bong hết lớp này thì lớp khác lại đùn lên, có thể tính hàng ngày.
- Cạo theo phương pháp Brocq: dùng thìa cùn, cạo nhiều lần nhẹ nhàng dần dần từng lớp một, sẽ thấy ba hiện tượng:
Vết nến: vảy bong vụn như bột trắn, bong hết lớp này đến lớp khác.
Màng bong: tiếp tục cạo đến lớp cuối cùng của lớp sừng, cạo mạnh một cái sẽ có một màng mỏng, dai, trong suốt bong ra.
Giọt sương máu: dưới màng bong là một nền da đỏ nhẵn và bóng, có rớm dịch lấm tấm như giọt sương nhỏ.
Phương pháp này có giá trị để chẩn đoán phân biệt với một số bệnh lý khác.
- Số lượng tổn thương: nhiều hay ít tùy theo từng bệnh nhân, có thể một vài tổn thương đến hàng trăm tổn thương.
- Tiến triển của tổn thương: thường kéo dài hàng tháng, hàng năm. Dát mỏng dần hoặc lan rộng ra xung quanh. Khi bệnh thuyên giảm ổn thương thường để lại vết thâm hoặc vết bạc màu rất lâu, đó là những nơi hay tái phát.
-
Vị trí của tổn thương
Tổn thương có xu hướng mọc đối xứng. Vùng da nào cũng có thể mắc bệnh nhưng khu trú nhiều nhất và biểu hiện sớm ở vùng tì đè như khuỷu tay, đầu gối, vùng xương cùng, trán, da đầu và mặt duỗi các chi.
Những chỗ da bị sang chấn (vết xước, vết mổ, vết sẹo hoặc trên tổn thương của một bẹnh ngoài da khác) thì tổn thương dễ tái phát gọi là dấu hiệu Kobner
-
Cơ năng và toàn thân
Ngứa ít hoặc nhiều tùy từng bệnh nhân. Có thể không ngứa nhưng cảm giác vướng víu khó chịu ảnh hưởng đến thẩm mỹ. Bệnh nhân vẫn khỏe mạnh bình thường.
Không có bình luận